Tin tức

17Mar

Luyện thi IELTS 4.5 – 6.0

16Nov

Chúc mừng em Thanh Hương – Học sinh lớp 12 thi TOEIC quốc tế đạt 680 scores

21Jun

CƯỜNG QUỐC GIÁO DỤC PHẦN LAN

Những người thầy ở thiên đường giáo dục

  • TTO – Ở một số nước châu Âu, nghề giáo là lựa chọn cuối cùng. Tuy nhiên ở Phần Lan, nghề giáo được đánh giá cao hơn so với các nghề khác trong xã hội. 
Cô Tea Vuorinen trò chuyện với học sinh tại Trường Viikki – Ảnh: Quỳnh Trung

Cô Tea Vuorinen – Ảnh: Quỳnh Trung

Khác với nhiều nước phương Tây, nghề giáo ở Phần Lan được đặc biệt xem trọng trong xã hội. Sinh viên muốn thi vào ngành sư phạm phải trải qua nhiều vòng thi sát hạch gắt gao với tỉ lệ chọi khoảng 1/10.

Giáo viên ở Phần Lan toàn tâm toàn ý cho nghề dạy học và hoàn toàn không có khái niệm dạy thêm bên ngoài.

Trong chuyến thăm Phần Lan cùng đoàn nhà báo quốc tế, phóng viên Tuổi Trẻcó cuộc trao đổi thú vị với cô Tea Vuorinen, giáo viên lớp 7 Trường Viikki Teaching Training School ở thủ đô Helsinki.

Sự lựa chọn trân trọng của xã hội 

Cô Tea Vuorinen trông trẻ hơn so với cái tuổi 28, hiện đang là giáo viên lớp 7. Cô Tea cho biết mình thuộc trong số 10% thí sinh được chọn vào học trường sư phạm sau khi nhà trường xem xét điểm trung học, bài thi sát hạch đầu vào và khả năng sư phạm của cô. Những sinh viên may mắn như cô Tea sẽ phải học từ 5-6 năm trước khi có thể đứng lớp một mình.

“Ở một số nước châu Âu, nghề giáo là lựa chọn cuối cùng. Tuy nhiên ở Phần Lan, nghề giáo được đánh giá cao hơn so với các nghề khác trong xã hội. Đối với các học sinh trung học, nghề giáo là một nghề rất cao quý và rất có danh tiếng” – cô giáo Tea chia sẻ.

Nói về lý do trở thành giáo viên, cô Tea kể: “Ở Phần Lan, bạn có nhiều sự lựa chọn và mọi thứ đều miễn phí. Bạn không cần phải trả tiền nhiều hơn để trở thành giáo viên, bác sĩ hay kỹ sư. Do đó, tôi cũng có nhiều lựa chọn. Tôi nghĩ về nhiều nghề khác. Nhưng cuối cùng tôi chọn nghề giáo vì phù hợp với sở thích, khả năng và đam mê của mình. Ngoài ra, tôi cũng muốn làm điều gì đó ý nghĩa cho xã hội”.

Khi được hỏi có dạy thêm ngoài giờ hay làm công việc thứ hai để kiếm thêm thu nhập không, cô Tea tỏ ra khá bất ngờ. Cô Tea cho biết mức lương của giáo viên đủ để cô sống thoải mái, mà không cần quan tâm đến việc phải kiếm nghề tay trái để trang trải cuộc sống, thậm chí là ở các thành phố đắt đỏ như thủ đô Helsinki.

“Giáo viên ở Phần Lan hoàn toàn không có dạy thêm. Nếu học sinh nào muốn phụ đạo thêm sau giờ học, nhà trường sẽ sắp xếp và phân công giáo viên, và giáo viên sẽ được nhà trường trả công thêm. Tuy nhiên, nếu phụ huynh nào gọi điện nhờ tôi giúp đỡ con cái của họ, tôi sẽ sẵn sàng trong thời gian cho phép nhưng họ không phải trả tiền cho tôi” – cô Tea nói.

Nhiệm vụ chính: tìm hiểu học sinh

Cô Tea cho biết học sinh ở Phần Lan học hành không quá căng thẳng. Giáo viên chủ yếu trao cho học sinh những phương tiện và kỹ năng để chúng theo đuổi việc học suốt đời. “Điều quan trọng nhất là học sinh phải được cung cấp những phương tiện để các em có thể tìm thông tin chúng muốn. Ngoài ra, các em cũng được hướng dẫn cách hòa nhập với những người khác. Bởi vì khi các em ra đời và tìm việc làm, chúng sẽ biết cách hòa nhập với người khác, biết tự tin vào những điểm mạnh của mình” – cô giáo Tea nói.

Cô Tea cho biết trong lớp học cô thường cố gắng giúp các học sinh phát huy điểm mạnh của chúng và tập trung giúp đỡ các em khi cần thiết. Khi nhận lớp mới, điều đầu tiên cô làm chính là tìm hiểu kỹ từng em học sinh để hiểu rõ về tình hình học tập và nhu cầu của từng em. Ngoài ra, cô Tea cũng thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập của con em họ qua email hoặc qua ứng dụng nhắn tin WhatsApp.

Tác giả quyển sách Giáo dục Việt Nam và Phần Lan, tiến sĩ Nguyễn Khánh Trung, cho biết ở Phần Lan phong cách giảng dạy của mỗi giáo viên hoàn toàn mang dấu ấn riêng của từng cá nhân. Quan niệm giáo dục toàn diện của người Phần Lan không phải là dạy cho học sinh nhiều môn, nhiều thứ mà là giáo dục cho trẻ nhỏ phát triển về mọi mặt như kiến thức, kỹ năng hằng ngày, ý thức trách nhiệm với công việc ở trường và ở nhà, sự tôn trọng người khác, tinh thần hợp tác khi làm việc nhóm, cách thức tổ chức và kế hoạch cuộc sống, óc sáng tạo và khả năng tự đánh giá bản thân.

Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục ở Phần Lan không yêu cầu tính cạnh tranh, không đưa ra việc thi đua khen thưởng giữa các học sinh với nhau trong lớp, trong trường cũng như giữa các trường hay các vùng với nhau. Học sinh Phần Lan từ lớp 1 đến lớp 9 không phải trải qua một kỳ thi chung nào, chỉ đến cuối lớp 9 mới có một kỳ thi quốc gia nhưng không bắt buộc.

Tiến sĩ Nguyễn Khánh Trung đánh giá đó là một hệ thống quản lý dựa trên lòng tin, tin vào các học sinh, tin vào khả năng đánh giá và sự công tâm, chuyên nghiệp của các giáo viên đứng lớp nên không cần những cuộc kiểm tra chung ở trường hay trong khu vực.

Nghề cần chuyên môn cao

Ở Phần Lan, sự trọng vọng đối với nghề giáo cũng đồng nghĩa với sự đòi hỏi chuyên môn cao ở các giáo viên. Nếu bạn muốn làm giáo viên cấp giáo dục cơ bản (từ lớp 1 đến lớp 9) và cấp học General Secondary School (thời gian học chuyển từ bậc giáo dục cơ bản lên đại học) phải có bằng thạc sĩ chuyên môn.

Giáo viên dạy nghề cũng phải có bằng sau đại học, kinh nghiệm chuyên môn trong lĩnh vực đó và chứng chỉ sư phạm.

Trong khi đó, những người làm công tác quản lý giáo dục ngoài việc được yêu cầu phải có kinh nghiệm làm việc phù hợp, còn cần có bằng thạc sĩ hoặc chứng chỉ giảng dạy và chứng chỉ quản lý giáo dục. Hiệu trưởng trường đại học phải có bằng tiến sĩ hoặc học vị giáo sư.

Giáo viên được xem là chìa khóa trong việc cung cấp chất lượng giáo dục đại học, do vậy Phần Lan liên tục chú trọng bảo đảm và nâng cao nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên. Ở mọi cấp học, giáo viên được yêu cầu phải tham gia khóa huấn luyện chuyên môn mỗi năm. Được tham gia khóa huấn luyện này là một vinh dự với các giáo viên nên họ rất chủ động tích cực tham dự.

QUỲNH TRUNG

Read more

2Jun

Môi trường học thoải mái đưa học sinh đến đích xa hơn

31/05/2015 11:15 GMT+7

TT – “Việc làm thế nào để khuyến khích, khen thưởng học sinh tiểu học trong quá trình học cũng là thử thách của các giáo viên người nước ngoài chúng tôi” – Tiến sĩ William Johnson chia sẻ.

1

Một buổi học ngoại khóa tìm hiểu về động vật của học sinh Trường tiểu học Lương Định Của (Q.3, TP.HCM) tại Thảo cầm viên – Ảnh: Như Hùng

Tôi không hiểu biết lắm về cách thức các đồng nghiệp người Việt khuyến khích học sinh tiểu học học tập, nhưng từ thông tin trong bài “Nỗi buồn khen thưởng cuối năm học” (Tuổi Trẻ ngày 26-5), tôi muốn nói việc làm thế nào để khuyến khích, khen thưởng học sinh tiểu học trong quá trình học cũng là thử thách của các giáo viên người nước ngoài chúng tôi.

Có nhiều cách thức để khuyến khích học sinh, nhưng cách mà chúng tôi chọn là tạo một môi trường học tập thoải mái, không áp lực điểm số, bài tập, kiểm tra để chọn lựa các học sinh giỏi bằng những điểm số thu hoạch qua các kỳ sát hạch, kiểm tra.

Tôi rất cảm kích tinh thần học tập chăm chỉ của học sinh VN. Học sinh VN có nhiều ưu điểm, trong đó nổi bật là sự chăm chỉ học tập, sự thân thiện, sẵn sàng giúp đỡ người khác…

Suốt 30 năm trong nghề và công tác ở nhiều nước nhưng tôi chưa từng cảm thấy vui vẻ, được quan tâm, kính trọng nhiều như thời gian ở VN. Học sinh VN rất thích đùa, chọc cười người khác, tôi cũng bị chọc cười… đó chính là niềm vui mang tôi và các giáo viên khác đến trường mỗi ngày.

Nhân đây tôi cũng chia sẻ rằng các nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng thi cử, làm bài kiểm tra nhiều thật sự không phải là cách tốt nhất để khuyến khích học sinh học tập.

Các bạn nghĩ đi, với 8-9 giờ học sinh học ở trường có rất nhiều thứ để phải ôn lại nên làm thế nào để cân bằng kiến thức mà các em đã tiếp nhận và tiêu hóa nó một cách hữu hiệu là điều quan trọng. Điều mà chúng tôi quan tâm lưu ý và khuyến khích học sinh phải làm là chuẩn bị kiến thức cho các bài học ngày hôm sau thật tốt.

Còn việc đánh giá kết quả học tập của học sinh trong trường của chúng tôi cũng tập trung vào quá trình phát triển, tiến bộ trong học tập của các em trong cả học kỳ hoặc cả năm, chứ không chỉ là điểm số đẹp của các bài kiểm tra.

2

Tiến sĩ William Johnson – Ảnh: L.Nam

Quan điểm đào tạo của chúng tôi là tập trung phát triển tính cách của học sinh bên cạnh những chương trình học kiến thức thông thường. Chúng tôi khuyến khích học sinh ghi nhận các hoạt động, thông tin từ thế giới bên ngoài mang vào lớp học, giúp học sinh phát triển toàn diện chứ không chăm chăm làm sao để có điểm tốt nhất trong các kỳ kiểm tra

Tiến sĩ WILLIAM JOHNSON

Giáo viên ở các trường học của Mỹ hiểu rằng phải giáo dục, đào tạo cái gì mà hữu ích cho học sinh để các em có thể sử dụng sau này khi vào đại học hoặc cao đẳng. Chính vì vậy chúng tôi cũng muốn học sinh hiểu rằng các em phải nỗ lực cho đích đến đó, chứ không phải nỗ lực vì giải thưởng cuối năm hay cuối học kỳ rất cao.

Phần thưởng cuối cùng và danh giá nhất đối với các em chính là việc bước vào trường đại học hay trung học một cách tự hào. Những gì các em học ở trường hiện nay là quan trọng, là nền tảng cho quá trình đó.

Chúng tôi cũng không cố gắng thuyết phục phụ huynh rằng cách đào tạo của chúng tôi là tốt nhất, chúng tôi chỉ chia sẻ để phụ huynh hiểu rằng những học sinh mà chúng tôi khen thưởng chính là những học sinh được ghi nhận đã có sự nỗ lực vươn lên.

Học sinh giỏi không nhất thiết có kết quả học tốt nhất

Trong quá trình dạy ở trên lớp, chúng tôi nhận ra các học sinh giỏi thuộc nhóm đứng đầu của lớp không nhất thiết phải là những học sinh có kết quả tốt nhất. Trường chúng tôi là trường quốc tế nên học sinh đều học tiếng Anh.

Có những học sinh ngay từ đầu đã có căn bản rất tốt, rất giỏi tiếng Anh so với các học sinh khác, nhưng cũng có những học sinh có căn bản tiếng Anh rất thấp, khả năng hiểu và diễn đạt cũng không tốt.

Tuy nhiên, đến cuối năm những học sinh có căn bản tiếng Anh rất thấp nói trên lại có bước phát triển rất đáng ghi nhận trong việc sử dụng, giao tiếp tiếng Anh.

Bên cạnh những học sinh nỗ lực học tập còn có các học sinh dám mạnh dạn hỏi và thể hiện sự không hiểu biết của mình về vấn đề nào đó với giáo viên và nhờ giáo viên giúp, trong khi có nhiều học sinh không muốn thể hiện sự yếu kém này của mình…

Vì vậy nếu khen thưởng, chúng tôi phải khen cả hai: học sinh có kết quả học tập tốt và học sinh có sự tiến bộ rõ rệt, hiệu quả nhất.

LÊ NAM 

Read more
31May

Mổ xẻ năng lực tiếng Anh của người Việt qua bài thi TOEIC

31/05/2015 15:22 GMT+7

TTO – Theo báo cáo mới đây của Viện khảo thí giáo dục Hoa kỳ (ETS) về năng lực sử dụng tiếng Anh thể hiện qua bài thi TOEIC, Việt Nam đứng ở vị trí khá khiêm tốn trong số gần 50 quốc gia được khảo sát.

 1

Bảng xếp hạng về năng lực sử dụng tiếng Anh thể hiện qua bài thi TOEIC do Viện khảo thí giáo dục Hoa kỳ (ETS) công bố

2

Báo cáo này được thực hiện dựa trên khảo sát nhiều tiêu chí khác nhau từ tuổi tác, giới tính, chuyên ngành học, vị trí công tác, nghề nghiệp, thời lượng dành cho việc học tiếng Anh, kỹ năng được chú trọng khi học cho đến yêu cầu thực tế của đời sống công việc.

Cuối bảng xếp hạng

Nghiên cứu dựa trên khảo sát các nhóm thí sinh với 40% trong độ tuổi 21-25; 57% là nam; 58% tốt nghiệp hoặc đang theo học đại học, cao đẳng; 81% đã có quá trình học tiếng Anh sáu năm; chỉ có 12% có cơ hội tiếp xúc với quốc gia bản ngữ khoảng sáu tháng.

Đặc biệt, trong số đó 31% chọn đọc hiểu là kỹ năng sử dụng nhiều nhất như những người trong các vị trí chuyên môn kỹ thuật.

Trong báo cáo kết quả khảo sát năm 2013, tổng điểm trung bình bài TOEIC nghe hiểu và đọc hiểu của Việt Nam là 469 (trên tổng 900), chỉ cao hơn Mông Cổ (441), Macau (438), Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (436) và Indonesia (423).

Nhóm những nước đứng đầu bảng có điểm số rất cao so với Việt Nam. Trong đó, cao nhất là Bangladesh (896) và Ấn Độ (861), kế tiếp là Pháp (728), Trung Quốc (716) và Nga (683).

Bangladesh và Ấn Độ có kết quả cao cũng dễ hiểu vì hai quốc gia này từng là thuộc địa của Anh và vẫn duy trì dạy và học tiếng Anh như là một trong những ưu tiên trong quá trình phát triển.

Thực tế này cũng được ông Lý Quang Diệu khẳng định về vai trò của tiếng Anh đối với sự phát triển của Singapore.

Ngay cả Pháp là quốc gia luôn tìm cách khôi phục vai trò của tiếng Pháp trong đời sống quốc tế, việc dạy và học tiếng Anh cũng đáng để học tập.

Thực tế tại Pháp cho thấy việc dạy và học tiếng Anh trong hệ thống trường của Pháp gần đây đã thay đổi và bắt đầu dạy từ tiểu học.

Nhóm 26-30 tuổi có năng lực tiếng Anh tốt nhất

Số liệu điều tra tại những quốc gia này còn cho thấy những thông tin rất thú vị. Ví dụ, báo cáo cho thấy tuổi tác người học không ảnh hưởng nhiều đến khả năng thể hiện.

Điểm thể hiện trung bình (mean performance) của nhóm tuổi dưới 20 là 491 thì nhóm tuổi trên 45 là 524.

3

Các thông số về năng lực sử dụng tiếng Anh thể hiện qua bài thi TOEIC với độ tuổi, giới tính và bậc học

Nguyên nhân có thể có rất nhiều, dựa trên những dữ kiện cơ sở nói trên. Tuy vậy, mục đích và động cơ học tập, môi trường sử dụng, vốn tích lũy kiến thức, vốn sống… là những nguyên nhân quan trọng khiến nhóm người lớn tuổi hơn (45 tuổi trở lên) có điểm trung bình cao.

Tuy nhiên, xét trên bình diện dân số học trong báo cáo này, nhóm tuổi 26-30 có chỉ số thể hiện tốt nhất (617).

Trước những nghiên cứu này, chúng ta càng thấy rằng việc dạy và học của người học Việt Nam còn cần nhiều cố gắng.

Năm 2015, Việt Nam sẽ chính thức trở thành một thành viên của Cộng đồng kinh tế ASEAN. Bước ngoặt này sẽ tạo ra nhiều cơ hội nghề nghiệp nhưng đồng thời đặt ra không ít thách thức cho lao động trẻ Việt Nam và năng lực ngoại ngữ chính là chiếc chìa khóa vàng giúp bạn trẻ hội nhập thành công.

Trước xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, tiếng anh đã trở thành ngôn ngữ chung của mọi quốc gia. Hiện nay trên thế giới có gần 60 quốc gia sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ chính, bên cạnh tiếng mẹ đẻ và gần 100 quốc gia sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai.

Trong tất cả lĩnh vực từ kinh doanh, thương mại, truyền thông, du lịch, kỹ thuật…. tiếng Anh đều giữ vai trò là ngôn ngữ giao dịch chính thức. Vì vậy những người thành thạo tiếng Anh có thêm nhiều lợi thế cạnh tranh về khả năng chuyên môn cũng như có sự hội nhập tốt với thị trường lao động quốc tế.

Xét theo giới tính, báo cáo cho thấy chỉ số thể hiện trung bình của nữ cao hơn của nam (593 so với 560). Một phát hiện đặc biệt nữa là sinh viên đã tốt nghiệp đại học có chỉ số thể hiện trung bình cao nhất (659), còn sinh viên các trường dạy nghề có chỉ số này ở mức thấp nhất (383).

Kết quả theo nhóm ngành cũng cho những thông tin bổ ích. Nhóm ngành nghiên cứu khoa học xã hội (social studies) có chỉ số thể hiện trung bình cao nhất (609) và nhóm ngành liên quan đến y là thấp nhất (507).

NGUYỄN PHƯƠNG SỬU

Read more

2May

Tín chỉ tiếng Anh quốc tế IELTS 6.0

Tín chỉ tiếng Anh quốc tế   IELTS   6.0   do   Hội Đồng Anh cấp

c

Read more
2May

Em Mỹ Linh nhận tín chỉ B ĐHSP.TPHCM

Em Mỹ Linh hiện là học sinh lớp 8 ở Hốc Môn , TP.HCM   .  Năm nay em 14 tuổi . Em vừa thi đậu tín chỉ B tiếng Anh của trường ĐHSP TP.HCM . Em cũng là thí sinh nhỏ tuổi nhất dự thi tiếng Anh .

a

b

Read more
14Feb

DU HỌC MỸ

learn

DU HỌC MỸ

Du học tại Mỹ ở các trường Trung học và Cao đẳng cộng đồng.

TRUNG HỌC

Hiện nay được coi là tốt nhất vì vậy các trường đại học cũng như trung học ở nước nay luôn thu hút các học viên từ các nước tới theo học, ở đây các học viên được phát triển bản thân theo hướng khuyến khích bộc lộ các tiềm năng.

Trường trung học cấp II dạy từ lớp sáu đến lớp tám hoặc từ lớp bảy đến lớp chín. Thông thường, bảng điểm chính thức của học sinh được tính từ năm lớp chín.
Trường trung học cấp III dạy từ lớp 9 đến lớp 12 hoặc từ lớp 10 đến lớp 12. Nói chung, học sinh cấp III học khá nhiều môn chứ không tập trung vào một môn cụ thể. Điểm để qua các môn có thể từ 60 đến 75 (theo thang điểm 100).

Trung học ở Mỹ gồm 2 loại:

– Trường công lập: do chính phủ tài trợ nên học sinh theo học tại những trường này không phải trả học phí. Học sinh quốc tế tham gia chương trình giao lưu văn hoá cũng được hưởng sự ưu đãi này.
– Trường tư thục: học phí khá cao, chất lượng giảng dạy không thua kém các trường công lập. Trang thiết bị phục vụ việc học tập và ăn ở rất tốt. Học sinh quốc tế của các trường tư thục thường ở tại ký túc xá của trường hoặc sống cùng các gia đình người Mỹ.

Để đưa ra quyết định du học cần phải tìm hiểu thông tin một cách kỹ lưỡng, vì kế hoạch học tập có thể ảnh hưởng đến toàn bộ sự nghiệp cũng như cuộc đời của bạn. Những con đường vào Đại học Mỹ dựa trên một số điểm xuất phát khác nhau của học sinh Việt Nam sẽ giúp các bạn đưa ra những quyết định đúng đắn nhất cho bản thân.
Về cơ bản thì các học sinh quốc tế bắt buộc phải từ các trường trung học tư thục tại Mỹ trừ các trường hợp ngoại lệ ví dụ như đi học theo chương trình giao lưu văn hóa… Thông thường các em học xong phổ thông lớp nào thì có thể được học tiếp lên lớp kế sau, tuy nhiên có nhiều trường cũng yêu cầu học sinh phải học lại lớp mà học sinh mới tốt nghiệp, ví dụ học sinh vừa tốt nghiệp lớp 10 sẽ phải học lại lớp 10 ở Mỹ. Vậy kế hoạch học tập thế nào vừa tốt về mặt học thuật vừa hiệu quả về mặt kinh tế, dưới đây là các kế hoạch học tập phổ biến mà các bạn nên xem xét để chọn cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của cá nhân.

CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG

Học cao đẳng cộng đồng tại Mỹ hiện là một xu hướng học tập phổ biến đối với du học sinh Việt Nam muốn lấy bằng cử nhân tại Mỹ. Vì sao như vậy? Trước hết vì đây là đường dẫn vào bậc cử nhân tại Mỹ rất phổ biến đối với chính sinh viên Hoa Kỳ. Khoảng 50% sinh viên Mỹ bắt đầu các năm đại học của mình tại các trường cao đẳng cộng đồng.

       Vì sao nên chọn học cao đẳng cộng đồng?

1. Điều kiện đầu vào của các trường cao đẳng cộng đồng là tương đối thấp và ít cạnh tranh hơn so với các trường đại học hệ 4 năm. Nhiều trường chỉ cần bạn có bằng tốt nghiệp PTTH và trên 17 tuổi tính đến thời điểm nộp đơn là được, và không yêu cầu phải có điểm TOEFL. Trong khi đó các trường đại học hệ 4 năm thường đòi hỏi bạn phải có điểm TOEFL iBT ít nhất là 80, chưa kể nhiều trường, còn yêu cầu điểm SAT tối thiểu là 1500.

2. Học phí thấp hơn đáng kể so với các trường đại học hệ 4 năm. Với chương trình 2 năm đầu tại các trường cao đẳng cộng đồng sau đó chuyển tiếp lên 2 năm cuối tại các trường đại học hệ 4 năm trung bình có thể giúp bạn tiết kiệm khoảng 15,000- 17,000 USD học phí so với trường hợp bạn học suốt tại trường đại học hệ 4 năm. Các trường cao đẳng cộng đồng thường được tài trợ từ ngân sách liên bang, ngân sách tiểu bang và nguồn thu thuế của địa phương. Nên dù có áp dụng chính sách học phí riêng cho sinh viên quốc tế thì vẫn rẻ hơn so với học phí ở đại học 4 năm.

3.  Sỉ số lớp nhỏ, tỉ lệ sinh viên/giảng viên thấp, tạo điều kiện cho các sinh viên dễ dàng tiếp cận, trao đổi và nhận sự hỗ trợ cá nhân của giảng viên khi cần thiết, giảng viên biết rõ sinh viên của lớp. Các sinh viên cũng dễ dàng giao lưu trao đổi kinh nghiệm học tập lẫn nhau một cách cởi mở, thân ái hơn. Điều quan trọng hơn là 2 năm học tại cao đẳng cộng đồng là một giai đoạn chuyển tiếp rất cần thiết cho phần lớn các bạn sinh viên Việt Nam vốn chưa quen với lối học đại học của một nước có nền giáo dục phát triển như Mỹ. Trong 2 năm này các bạn sẽ dần làm quen và thích nghi với cách học tập đại học đặt cơ sở trên việc chủ động trong học tập, khuyến khích suy nghĩ có chọn lọc và phê phán. Và đặc biệt đối với những chuyên ngành như Y, Dược, Luật, Nha, Kiến trúc … các trường cao đẳng cộng đồng sẽ cung cấp các khoá dự bị như pre-nursing, pre-dental, pre-law để sinh viên có cơ sở đi sâu hơn vào chuyên môn tại các trường chuyên ngành.

4.Chính sách chuyển tiếp của các trường cao đẳng cộng đồng cho phép bạn chuyển tiếp vào 2 năm cuối tại các trường đại học hoặc cao đẳng hệ 4 năm để lấy bằng cử nhân cho ngành học của mình. Cần lưu ý là không phải bạn có thể chuyển tiếp lên trường đại học nào cũng được mà nên tham khảo trước, xem trường đại học nào chấp nhận chuyển tiếp toàn bộ hay một phần các tín chỉ đã học tại trường cao đẳng cộng đồng thông qua các thỏa thuận chuyển tiếp (articulation agreements) giữa các trường với nhau, hoặc một sự chấp nhận qua thực tế. Bạn có thể tham khảo điều này trong các trang web của các trường cao đẳng cộng đồng.

Đặc biệt tại bang Washington, có nhiều trường cao đẳng cộng đồng có ‘chương trình kép’ thu nhận học sinh VN vừa tốt nghiệp lớp 10 hoặc lớp 11 với điểm trung bình toàn năm đạt từ 6.5 hoặc 7 điểm trở lên và đủ 16 hoặc 17 tuổi, (tuỳ trường) để vào chương trình tại đây vừa hoàn tất phổ thông trung học vừa tốt nghiệp cao đẳng cộng đồng. Đối với các bạn vừa tốt nghiệp lớp 10 và mới đủ 16 tuổi thì chỉ nên tham gia khoá học này khi bạn tự tin vào khả năng tiếng Anh , học lực, và kỷ năng học tập tốt của mình.

       Điều kiện đầu vào của trường cao đẳng cộng đồng khác gì so với trường ĐH hệ 4 năm?

Điều kiện đầu vào của các trường cao đẳng cộng đồng là tương đối thấp và ít cạnh tranh hơn so với các trường đại học hệ 4 năm. Nhiều trường chỉ cần bạn có bằng tốt nghiệp PTTH và trên 17 tuổi tính đến thời điểm nộp đơn là được, và không yêu cầu phải có điểm TOEFL. Trong khi đó các trường đại học hệ 4 năm thường đòi hỏi bạn phải có điểm TOEFL iBT ít nhất là 80, chưa kể nhiều trường, còn yêu cầu điểm SAT tối thiểu là 1500.

        Vì sao điều kiện đầu vào của các trường cao đẳng cộng đồng khá ‘dễ dàng’ như thế, thực chất là như thế nào?

Xuất phát từ triết lý cơ bản của hệ trường cao đẳng cộng đồng Hoa Kỳ là một hệ thống chiêu sinh đầu vào ‘mở’ sẽ mang lại một điều kiện ban đầu rất thoáng giống nhau cho mọi đối tượng để ai cũng có thể tiếp cận các kỹ năng và kiến thức ở trình độ đại học , thể hiện được sự công bằng giữa các giai tầng xã hội trong cơ hội việc làm. Hệ thống đầu vào mở này cũng áp dụng cho cả sinh viên quốc tế.

Tuy nhiên hệ thống mở không có nghĩa là ai cũng có thể vào bất cứ chương trình nào mà không bị đòi hỏi phải có những khả năng học tập nhất định. Thật ra những điều kiện tiên quyết đầu vào đại học tại một trường cao đẳng cộng đồng không khác với một đại học hệ 4 năm, điều khác biệt là ở chỗ, các trường cao đẳng cộng đồng thay vì khước từ những sinh viên không đạt đủ điều kiện đầu vào, sẽ tạo điều kiện cho các sinh viên này bằng một đường dẫn khác để đạt được điều kiện cần thiết.
learn-med

Read more
14Feb

TIỀM HIỂU VỀ TOEFL iBT

toeft

TIỀM HIỂU VỀ TOEFL iBT

TOEFL iBT là gì?

TOEFL trên Internet (iBT)

 

Đây là bài thi TOEFL thế hệ mới, sử dụng Internet để chuyển đề thi từ ETS về đến trung tâm tổ chức thi. Kể từ khi được giới thiệu vào cuối năm 2005, TOEFL iBT đang từng bước thay thế hoàn toàn dạng thi trên giấy (PBT) và dạng thi trên máy tính (CBT). Kì thi đã được tổ chức ở các quốc gia Mĩ, Canada, Pháp, Đức và Ý vào năm 2005 và các quốc gia khác vào năm 2006.

Bài thi TOEFL kéo dài trong 4 giờ và gồm có 4 phần, đòi hỏi thí sinh phải sử dụng thành thạo 4 kĩ năng. Nội dung của bài thi tập trung vào việc sử dụng tiếng Anh trong môi trường đại học hoặc cao học. Trong khi làm bài thí sinh có thể ghi chú.

1.     Nghe: Khoảng 34-50 câu hỏi, kéo dài từ 50-90 phút.

Phần nghe bao gồm 6 đoạn, mỗi đoạn kéo dài 3-5 phút và kèm theo câu hỏi về đoạn văn. Trong đó có 2 đoạn đối thoại của sinh viên và 4 đoạn thảo luận hoặc bài giảng về học thuật và chỉ nghe một lần. Mỗi cuộc hội thoại được có 5 câu hỏi và mỗi bài giảng có 6 câu hỏi. Các câu hỏi với mục đích đánh giá khả năng hiểu ý chính, thông tin chi tiết quan trọng, mục đích và thái độ của người nói.

Nội dung các bài nghe lấy trong bối cảnh của một trường đại học hay cao đẳng ở một nước nói tiếng Anh.

2.     Nói: Gồm 6 bài nói.

2 bài đầu là hình thức bài nói riêng (Independent Task) về một đề tài quen thuộc trong xã hội và sinh hoạt hằng ngày. Thí sinh sẽ được đánh giá về khả năng nói chuyện tự nhiên và cách thức truyền đạt ý tưởng. Thí sinh có 45 giây để nói.

4 bài nói tiếp theo là bài nói tích hợp (Integrated Task). Thí sinh phải nghe một đoạn hội thoại hay một bài thuyết giảng và sau đó trả lời dựa theo câu hỏi đưa ra có liên quan đến đoạn hội thoại hay bài thuyết giảng. Thí sinh sẽ được đánh giá về khả năng tổng hợp và truyền đạt thông tin từ các tài liệu. Ờ phần này, thí sinh có 60 giây để nói.

3.     Đọc: Cũng có hai hình thức là dài và ngắn.

Ở dạng dài, thí sinh sẽ trả lời câu hỏi về 3-4 bài đọc trích từ các sách giáo trình của trường đại học hoặc cao đẳng ở Bắc Mỹ. Ở dạng ngắn, thí sinh phải trả lời câu hỏi về 3 bài đọc cũng có độ dài từ 700-750 từ nhưng với thời gian ngắn hơn là 60 phút (so với 100 phút của dạng dài).

Phần này đòi hỏi khả năng thuyết trình, tranh luận, phản biện.

4.     Viết: Gồm 2 bài viết.

Bài thứ nhất là dạng Integrated Task. Thí sinh phải đọc một đoạn văn sau đó nghe một bài thuyết giảng rồi tóm tắt lại và nêu mối quan hệ giữa đoạn văn và bài thuyết giảng. Bài viết phải vào khoảng 150-225 từ. Thí sinh có 20 phút để viết.

Bài thứ hai là dạng Independant Task về một đề tài trong xã hội. Bài viết phải vào khoảng 300-350 từ. Thí sinh có 30 phút để viết.

Read more
14Feb

Tại sao VN thạo tiếng Anh hơn Thái 27 bậc?

– Kết quả khảo sát về khả năng thành thạo tiếng Anh của 60 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới do tổ chức giáo dục EF (Thụy Sĩ) công bố cho thấy: Người Việt đứng thứ 28 (và tăng so với chính mình cách đây 6 năm), Thái Lan lại xếp rất thấp, ở vị trí 55. Ông Minh Trần, Giám đốc dự án này đã trao đổi về các thông tin liên quan.

Việt Nam vươn lên thứ 28 về thành thạo tiếng Anh

“Đưa Ngoại ngữ ra khỏi kỳ thi tốt nghiệp: Chưa hợp lý”

‘Ngoại ngữ sẽ là môn thi tốt nghiệp bắt buộc’

 ngoaingu_1
Ông Minh Trần tại buổi công bố kết quả khảo sát

Báo cáo chỉ số thông thạo tiếng Anh EPI của tổ chức EF là khảo sát đầu tiên để so sánh khả năng tiếng Anh của người dân nước mình với quốc gia láng giềng. Ông có thể cho biết kết quả năm 2013 có những điểm gì đáng lưu ý?

Năm 2013, chúng tôi kiểm tra trên mạng internet với 750.000 người đến từ 60 vùng, lãnh thổ.

Báo cáo phiên bản thứ 3 này cho thấy, châu Âu vẫn là khu vực thành thạo tiếng Anh cao nhất thế giới, ngoại trừ Pháp, chỉ số của họ tiếp tục giảm.

Ở khu vực châu Á, có tiến bộ vượt bậc, đặc biệt là Việt Nam và Indonesia.

Mỹ La tinh là nơi có khả năng thành thạo tiếng Anh tương đối thấp.

Khu vực có khả năng tiếng Anh kém nhất trên toàn thế giới là Bắc Phi và Trung Đông.

Báo cáo lần này chia thành các nhóm: rất thông thạo, thông thạo, trung bình, thấp, rất thấp. Trong nhóm thông thạo (hầu hết là châu Âu), xuất hiện thêm hai nước châu Á là Malaysia và Singapore.

Nhóm trung bình có nhiều nước châu Á: Ấn Độ thứ 21, Hàn Quốc 24, Indonesia 25, Nhật Bản 26 và Việt Nam: 28, ở cuối bảng này.

Ở nhóm thông thạo thấp, Nga xếp thứ 31, Đài Loan 33, Trung Quốc 34. Tuy nhiên cao hơn cả Pháp (35). Có một quốc gia châu Á trong nhóm rất thấp là Thái Lan (thứ 55/60).

Ngoài thứ hạng thay đổi, báo cáo phiên bản lần này có điều gì đáng lưu ý, thưa ông?

Điểm mới của bảng đánh giá lần này là chỉ ra mối liên hệ giữa việc thông thạo tiếng Anh của lực lượng lao động và sự phát triển kinh tế của đất nước đó.

Chúng tôi so sánh và thấy khả năng sử dụng tiếng Anh càng tốt thì thu nhập của người lao động càng cao.

Hay so sánh: tỉ lệ thuận giữa chỉ số xuất khẩu bình quân/ đầu người với chỉ số thành thạo tiếng Anh cũng cho thấy, khả năng tiếng Anh ở đâu càng cao thì ở đó càng có nhiều nơi muốn hợp tác trong hoạt động thương mại.

Người Thái giỏi tiếng Anh trong du lịch hơn

Thưa ông, kết quả khảo sát lần trước khi được thông tin ở Việt Nam đã có nhiều tranh cãi. Ngay như lần này, sẽ thật khó tin khi mà Thái Lan lại thấp hơn cả cả Việt Nam rất xa?

Theo tôi thì nhận xét của dư luận về trình độ tiếng Anh của các nước đã có sự lỗi thời so với thực tế.

Tôi từng ở Thái Lan và nhận thấy nhiều người Thái dùng tiếng Anh trôi chảy nhưng chỉ ở trong lĩnh vực du lịch.

Còn tiếng Anh chung trong các lĩnh vực đời sống khác thì họ không tốt bằng Việt Nam. Tôi nghĩ các bạn đánh giá hơi thấp bản thân.

Vậy lý do khiến Việt Nam lên “nhóm trung bình” và tăng trưởng so với cách đây 6 năm là gì?

Việt Nam có một đặc thù là 60% dân số dưới 35 tuổi. Dân số trẻ như vậy là điều thuận lợi để tiếp thu kiến thức, ngôn ngữ mới.

Nhưng điều quan trọng là chính phủ đã sớm có chiến lược để tăng cường khả năng tiếng Anh cho lực lượng lao động kế cận. Đó là việc chi 9.000 tỷ đồng của Đề án ngoại ngữ 2020 của chính phủ để tăng cường khả năng tiếng Anh cho đội ngũ giáo viên.

Nhưng để sử dụng hiệu quả hơn số tiền này, theo tôi, cần phải đào tạo đội ngũ giáo viên dạy tiếng Anh khác đi.

Cách dạy tiếng Anh của người Việt cũng giống như người Nhật. Ở Nhật, 80% giáo viên dùng tiếng Nhật để dạy tiếng Anh.

Truyền thống giáo dục các nước châu Á là học để thi. Khi học ngoại ngữ đều cố gắng nhớ từ mới, học thuộc lòng cấu trúc ngữ pháp; trong khi điều quan trọng của học ngôn ngữ là làm sao để giao tiếp.

Có một câu hỏi tôi thường gặp khi đi rất nhiều nơi là “làm thế nào để tăng cường khả năng tiếng Anh?”. Câu trả lời đơn giản là: “Hãy dành nhiều thời gian hơn nữa để sử dụng tiếng Anh.

Hãy để học sinh khám phá tiếng Anh thực tế của mình. Các em cần phải được sử dụng tiếng Anh nhiều hơn, trong lớp học cho đến hoạt động ngoại khóa, đọc sách, xem TV, nghe nhạc, v.v…

Có mâu thuẫn không khi mà theo kết quả này, thì Việt Nam lại thành thạo khả năng dùng tiếng Anh của mình so với 6 năm trước đó. Trong khi mới đây, ngành giáo dục đang cân nhắc quyết định bỏ môn ngoại ngữ ra ngoài môn bắt buộc của kỳ thi tốt nghiệp THPT, chứng tỏ sự chưa thành công trong đào tạo ngoại ngữ. Việc “không bắt buộc” như vậy có đáng lo ngại cho việc dạy tiếng Anh trong nhà trường phổ thông ở VN không?

Tôi giải thích một chút là báo cáo này không nêu các nguyên nhân tại sao lại tăng, giảm. Các bạn cũng có thể thấy kết quả PISA của Việt Nam vừa rồi cũng gây bất ngờ đấy chứ.

Còn yếu tố “bắt buộc hay không bắt buộc” thi ngoại ngữ trong các kỳ thi không phải là điều quan trọng nhất.

Điều quan trọng là nhận thức tự thân của mỗi học sinh. Họ thấy cần phải chủ động học ngoại ngữ để chuẩn bị cho tương lai chứ không phải vì một kỳ thi nào đó mới là điều tốt nhất.

Cảm ơn ông.

  • Hạ Anh (ghi)
Bà Vũ Thị Tú Anh, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học (Bộ GD&ĐT): Phản ánh đúng đối tượng tham gia

Tôi nghĩ, báo cáo đánh giá đúng năng lực trên 3 kỹ năng của đối tượng tham gia là những người biết vào Internet và có kĩ năng làm bài qua mạng.Về phía Bộ GD&ĐT, việc không đưa Ngoại ngữ vào môn thi bắt buộc không phải đi ngược lại chủ trương đó mà là để quyết tâm thực hiện cao hơn, muốn đi vào thực chất. Trong khi hiện nay, việc dạy và học ngoại ngữ trong nước đang có sự chênh lệch rất lớn giữa 63 tỉnh, thành.

Ông Nguyễn Thế Đại, Hiệu trưởng Trường Hà Nội Academy: Không thể phủ kín được

Kết quả khảo sát của EF không thể phủ kín được biểu đồ giáo dục ở Việt Nam vì ngoại ngữ đang phát triển chủ yếu ở khu vực thành phố.

“Vùng trũng” ngoại ngữ chủ yếu tập trung ở nơi nghèo và khu vực nông thôn.

Trước đây, chúng ta có cách làm khá hợp lý, vùng nông thôn không có điều kiện học ngoại ngữ có thể dùng môn khác thi thay thế.

Ở Việt Nam, thi cử là động lực để học sinh học tập. Vì vậy, không nên bỏ ngoại ngữ trong các môn thi bắt buộc của kỳ thi tốt nghiệp THPT.

(Theo Gia đình và Xã hội)

EF thực hiện báo cáo chỉ số thành thạo tiếng Anh toàn cầu từ năm 2007 và hàng năm đều có báo cáo. Nhóm nghiên cứu gồm những thành viên đến từ nhiều trường ĐH khác nhau như ĐH Cambridge (Anh), Boston (Mỹ), Bắc Kinh (Trung Quốc). Minh Trần là thành viên trẻ nhất, đến từ Trường ĐH Hồng Kông. Ông rời TP.HCM đi Mỹ khi 10 tuổi và từng học ở ĐH Yale (Mỹ).EF là viết tắt của Education First, một tổ chức giáo dục tư nhân quốc tế, thành lập từ năm 1965, hoạt động trong lĩnh vực ngôn ngữ, du lịch,v.v..

 

Read more